1. Nhận thức về đô thị du lịch biển
Mặc dù còn có những bàn luận xung quanh khái niệm về đô thị, tuy nhiên cho đến nay ở Việt Nam khái niệm này đã được “luật hóa” và thể hiện trong Luật đô thị, theo đó “Đô thị là khu vực tập trung dân cư sinh sống có mật độ cao và chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực kinh tế phi nông nghiệp, là trung tâm chính trị, hành chính, kinh tế, văn hóa hoặc chuyên ngành, có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội của quốc gia hoặc một vùng lãnh thổ, một địa phương, bao gồm nội thành, ngoại thành của thành phố; nội thị, ngoại thị của thị xã; thị trấn”
Việc phân loại đô thị theo quy mô và vai trò của đô thị đối với phát triển kinh tế – xã hội từ cấp quốc gia đến cấp vùng, địa phương dựa trên các tiêu chí cơ bản cũng đã được quy định tại Nghị quyết số 1210/2016/UBTVQH13 ngày 25/05/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về Phân loại đô thị.
Cho dù chưa có tiêu chí rõ ràng để phân loại đô thị theo vùng địa lý (đô thị biển, đô thị núi,..), tuy nhiên một đô thị nào đó sẽ “mặc định” được xem là đô thị biển nếu đô thị đó đáp ứng được 2 tiêu chí cơ bản: Thứ nhất, có vị trí ở vùng ven biển, chịu tác động trực tiếp từ biển và Thứ hai, kinh tế biển có vai trò quan trong trong cơ cấu kinh tế của đô thị đó. Tương tự sẽ có đô thị đồng bằng, đô thị trung du, miền núi.
Tương tự như vậy, tiêu chí để phân loại đô thị theo chức năng phân ngành kinh tế như đô thị công nghiệp, đô thị dịch vụ,..cũng chưa chính thức được đưa vào hệ thống tiêu chí phân loại đô thị ở Việt Nam.
Trong bối cảnh đó, khái niệm về “Đô thị du lịch” lần đầu tiên đã xuất hiện trong Luật du lịch 2005, theo đó “Đô thị du lịch là đô thị có lợi thế phát triển du lịch và du lịch có vai trò quan trọng trong hoạt động của đô thị”. Với khái niệm này, đô thị du lịch phải thỏa mãn được 2 tiêu chí cơ bản đó là: Tiêu chí thứ nhất về “đô thị” được đưa ra trong Luật đô thị được quy định tại Nghị quyết số 1210/2016/UBTVQH13 ngày 25/05/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Tiêu chí thứ hai gồm: i) Có tài nguyên du lịch hấp dẫn trong ranh giới đô thị hoặc trong ranh giới đô thị và khu vực liền kề; ii) Có cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất – kỹ thuật du lịch đồng bộ, đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách du lịch; có cơ cấu lao động phù hợp với yêu cầu phát triển du lịch; và iii) Ngành du lịch có vị trí quan trọng trong cơ cấu kinh tế, đạt tỷ lệ thu nhập từ du lịch trên tổng thu nhập của các ngành dịch vụ theo quy định của Chính phủ (Điều 31, Luật du lịch 2005). Cho dù khái niệm về “Đô thị du lịch” đã không còn trong Luật Du lịch 2017, tuy nhiên đô thị luôn đóng vai trò quan trọng đặc biệt trong phát triển du lịch. Trong hệ thống tổ chức lãnh thổ du lịch, tất cả các trung tâm du lịch ở bất kỳ cấp quốc gia, cấp vùng hay địa phương đều là đô thị.
Dựa trên những phân tích được đưa ra, có thể thấy khái niệm về đô thị du lịch biển là khái niệm tích hợp các khái niệm về đô thị theo Luật đô thị và khái niệm về đô thị du lịch tại Luật du lịch 2005 với việc bổ sung vai trò của đô thị trong phát triển du lịch, theo đó “Đô thị du lịch biển là đô thị gắn liền với không gian biển-đảo, là nơi có tiềm năng tài nguyên du lịch nổi trội, có hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch đồng bộ, đáp ứng yêu cầu phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế biển nói riêng và KT-XH của địa phương nói chung”.
Hiện nay ở Việt Nam, khái niệm về du đô thị du lịch biển chưa được “luật hóa”, nói một cách khác là chưa có trong hệ thống phân loại đô thị được quy định bởi Luật đô thị. Tuy nhiên trong thực tế đã xuất hiện những đô thị mang tính chuyên ngành như “Đô thị công nghiệp” (Hải Phòng, Bình Dương,..), “Đô thị du lịch” (Hạ Long, Đồ Sơn, Sầm Sơn, Cửa Lò, Đà Nẵng, Nha Trang, …); đô thị mang tính chất chuyên biệt như “Đô thị xanh”, “Đô thị thông minh”, “Đô thị khởi nghiệp”,.. hoặc đô thị với danh hiệu được cộng đồng quốc tế công nhận như “Đô thị vì hòa bình”,..
Căn cứ vào khái niệm về đô thị du lịch biển đề cập ở trên và bản chất của ngành du lịch, hoạt động phát triển đô thị du lịch biển sẽ chịu ảnh hưởng bởi những yếu tố chủ yếu sau:
– Chính sách đối với phát triển đô thị nói chung và đô thị du lịch nói riêng, theo đó ngoài các quy định chung về đô thị cần có những quy định mang tính đặc thù của du lịch trong phát triển đô thị. Ví dụ, tỷ lệ hợp lý đối với không gian “xanh” để tạo cảnh quan du lịch; tỷ lệ hợp lý các công trình dịch vụ như khách sạn, nhà hàng, khu mua sắm, khu vui chơi giải trí,… đáp ứng nhu cầu của khách du lịch; tỷ lệ hợp lý về hệ thống giao thông và phương tiện vận chuyển công cộng phục vụ yêu cầu đi lại tham quan của khách du lịch; v.v. Đặc biệt cần có hệ thống giao thống kết nối giữa đô thị du lịch với các điểm tham quan, vui chơi giải trí du lịch ở vùng phụ cận. Điều này càng trở nên quan trọng đối với các đô thị du lịch biển có vai trò là trung tâm vùng hoặc là trọng điểm của vùng du lịch như: TP. Hạ Long (trọng điểm du lịch của vùng du lịch Đồng bằng sông Hồng và Duyên hải Đông Bắc), TP. Đà Nẵng (trung tâm du lịch của vùng Duyên hải miền Trung), TP. Nha Trang (trung tâm du lịch vùng Nam Trung Bộ), TP. Vũng Tàu (trọng điểm du lịch của vùng Đông Nam Bộ), TP. Phú Quốc (trọng điểm du lịch của vùng Tây Nam Bộ)…
– Năng lực quản lý của chính quyền đô thị, theo đó ngoài yêu cầu về trình độ quản lý đô thị, đội ngũ cán bộ quản lý đô thị còn phải có được hiểu biết về du lịch, hiểu biết về tương tác giữa hoạt động phát triển đô thị với môi trường và các hệ sinh thái biển để qua đó có được phương thức quản lý phù hợp đáp ứng yêu cầu phát triển du lịch là ngành kinh tế chủ lực của đô thị ven biển hoặc trên đảo.
– Nguồn nhân lực du lịch, theo đó với tư cách là một ngành kinh tế dịch vụ, nguồn nhân lực du lịch cần được đảm bảo cả về số lượng và chất lượng vì đây là yếu tố đặc biệt quan trọng ảnh hưởng đến mức độ hấp dẫn của sản phẩm, dịch vụ du lịch. Điều này còn trở nên có ý nghĩa khi nguồn nhân lực du lịch là điều kiện đầu tiên mà các nhà đầu tư sẽ xem xét khi quyết định đầu tư phát triển điểm đến du lịch nói chung và đô thị du lịch biển nói riêng.
– Môi trường du lịch, theo đó nếu như bản thân đô thị là nơi môi trường tự nhiên luôn chịu áp lực lớn bởi sự tập trung dân cư và cũng là nơi phát sinh nhiều yếu tố tiêu cực ảnh hưởng đến môi trường xã hội thì đối với đô thị du lịch áp lực này sẽ lớn hơn nhiều do có sự gia tăng du khách, đặc biệt vào mùa du lịch. Nếu môi trường du lịch không được đảm bảo thì sự phát triển du lịch sẽ không thể được đảm bảo và phát triển du lịch sẽ không tương xứng với vai trò của mình trong phát triển kinh tế – xã hội đô thị. Điều này sẽ đồng nghĩa với việc đô thị du lịch sẽ mất dần chức năng du lịch khi môi trường du lịch xuống cấp.
– Khả năng thích ứng của đô thị với tác động của biển như thủy triều và dòng chảy ven bờ, tình trạng xâm nhập mặn,… đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam nói chung và vùng ven biển nói riêng là lãnh thổ chịu ảnh hưởng nặng nề của biến đổi khí hậu với mức độ “khốc liệt” ngày một tăng do tác động các hiện tượng thời tiết cực đoan và nước biển dâng.
2.Hiện trạng phát triển hệ thống đô thị du lịch biển
Việt Nam có vị trí địa lý chiến lược thuận lợi về biển. Lãnh thổ đất liền của Việt Nam được bao bọc bởi bờ biển Đông trải dài trên 3.200 Km trên 3 hướng : Đông, Nam và Tây Nam. Trung bình cứ 100 Km2 diện tích đất liền Việt Nam có 1 Km bờ biển, tỷ lệ vào loại cao so với tỷ lệ trung bình của thế giới (600 Km2 đất liền mới có 1 Km bờ biển). Bờ biển của Việt Nam trải dài từ Bắc xuống Nam vì thế biển có vị trí đặc biệt trong phát triển kinh tế – xã hội và đảm bảo an ninh quốc phòng của đất nước.
Cho đến nay ở Việt Nam, dựa trên các hệ thống tiêu chí của đô thị (Luật đô thị 2015 và Nghị quyết số 1210/2016/UBTVQH13 ngày 25/05/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội) và đô thị du lịch (Luật du lịch 2005), thị xã Cửa Lò (Nghệ An) là đô thị đầu tiên ở Việt Nam đã lập quy hoạch theo hướng trở thành đô thị du lịch và Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 2355/QĐ-TTg ngày 25/12/2014 công nhận Cửa Lò, Nghệ An là đô thị du lịch.
Đến năm 2020, cả nước có 839 đô thị, trong đó có: 02 đô thị đặc biệt, 22 đô thị loại I, 31 đô thị loại II, 46 đô thị loại III, 86 đô thị loại IV và 652 đô thị loại V. Trong tổng số các đô thị từ cấp IV trở lên ở Việt Nam hiện có 41 đô thị có biển (chiếm 21,9%), trong đó có 01 đô thị đặc biệt, 06 đô thị loại I (02 trực thuộc TW), 11 đô thị loại II, 09 đô thị loại III và 14 đô thị loại IV. (Phụ lục.. ).
Lãnh thổ vùng đất ven biển, vùng biển và hệ thống các đảo nơi diễn ra du lịch biển, về mặt hành chính bao gồm 28 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có biển với diện tích tự nhiên là 126.747 Km2,, dân số (2019) là 49,1 triệu, bằng 38,2% diện tích tự nhiên và 51,0% dân số cả nước. Lãnh thổ du lịch biển là nơi hội tụ nhiều điều kiện thuận lợi với nguồn tài nguyên tự nhiên đa dạng và phong phú cho phát triển kinh tế – xã hội đặc biệt là du lịch bởi trên lãnh thổ này hiện tập trung tới 07/08 di sản thế giới ở Việt Nam; 07/11 các khu dự trữ sinh quyển; nhiều vườn quốc gia, các khu bảo tồn thiên nhiên; nhiều di tích văn hoá – lịch sử; v.v. Du lịch biển là lợi thế phát triển của du lịch Việt Nam trong quá trình hội nhập với khu vực và quốc tế.
Ở Việt Nam, phát triển du lịch biển với vai trò hạt nhân là các đô thị có vai trò đặc biệt quan trọng trong chiến lược phát triển du lịch với vai trò là ngành kinh tế mũi nhọn theo tinh thần Nghị quyết 08 NQ-TW ngày 16/01/2017 của Bộ Chính trị. Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam và Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt Nam giai đoạn đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt đã xác định trên phạm vi cả nước có 46 điểm đến có tiềm năng phát triển thành khu du lịch quốc gia, trong số đó đã có tới 25 điểm đến là thuộc dải ven biển. Mặc dù cho đến nay, nhiều tiềm năng đặc sắc của du lịch biển, đặc biệt là hệ thống đảo, bao gồm cả quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, chưa được đầu tư khai thác một cách tương xứng, tuy nhiên đến năm 2019, ở không gian biển – đảo tập trung tới 70% các khu, điểm du lịch trong cả nước; hàng năm thu hút khoảng 48-65% lượng khách du lịch cả nước, thu nhập từ hoạt động du lịch biển năm 2019 đạt trên 43.200 tỷ, bằng 60% tổng thu nhập du lịch Việt Nam.
Tuy nhiên trong tổng số 41 đô thị có biển thì không phải đô thị nào cũng là đô thị du lịch biển bởi chưa hội đủ 03 tiêu chí quan trọng: thứ nhất, có tiềm năng tài nguyên du lịch nổi trội và hệ thống hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch đồng bộ; thứ hai, đã được quy hoạch theo hướng đô thị có chức năng chính là du lịch; và thứ ba, du lịch thực sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn trong phát triển kinh tế – xã hội của đô thị.
Hiện trang các đô thị có biển ở Việt Nam được hệ thống và đưa ra trên Sơ đồ “Hệ thống các đô thị biển Việt Nam”.
Căn cứ tổ chức lãnh thổ du lịch Việt Nam, phần lớn các đô thị có biển ở trên đều là trung tâm du lịch hoặc là điểm đến du lịch trọng điểm, trong đó TP. HCM là trung tâm du lịch vùng du lịch Đông Nam Bộ và TP. Đà Nẵng là trung tâm du lịch vùng Duyên hải miền Trung. Nhiều đô thị có biển như Hạ Long, Sầm Sơn, Cửa Lò, Hội An, Quy Nhơn, Nha Trang, Phan Thiết, Vũng Tàu, v.v. từ lâu đã nổi tiếng là điểm đến du lịch biển hấp dẫn.
Đây được xem là kết quả bước đầu trong nỗ lực phát triển hệ thống đô thị du lịch nói chung và đô thị du lịch biển nói riêng ở Việt Nam. Tuy nhiên sau nhiều ý kiến trái chiều, đặc biệt khi Chính phủ chưa đưa ra Nghị định hướng dẫn với các tiêu chí cụ thể công nhận đô thị du lịch, nội dung này đã không còn được thể hiện trong “Luật du lịch 2017”. Điều này đồng nghĩa với việc mọi vấn đề liên quan đến phát triển hệ thống đô thị theo hướng chuyên ngành (đô thị công nghiệp, đô thị du lịch,…), theo đặc điểm vị trí địa lý (đô thị biển, đô thị núi,…), hay theo tính chất chuyên biệt (đô thị “xanh”, đô thị “thông minh”,…) sẽ được điều chỉnh bởi duy nhất Luật đô thị.
Cho dù cho đến nay “đô thị du lịch biển” chưa được công nhận bởi các quy định pháp luật, song trong thực tế nhiều đô thị có biển, nơi có tiềm năng du lịch nổi trội đã khẳng định phát triển du lịch thực sự là ngành kinh tế mũi nhọn, có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế biển và đóng góp tích cực vào phát triển kinh tế – xã hội của địa phương, đặc biệt trong việc tạo việc làm cho xã hội, tạo sức lan tỏa kéo theo nhiều ngành nghề liên quan cùng phát triển. Điển hình có thể kể đến là các đô thị Cửa Lò, Đà Nẵng, Hội An, Nha Trang, … (Bảng 1)
Bảng 1: Hiện trạng du lịch ở một số “Đô thị du lịch biển”
Nguồn: – Niên giám thống kê 2019 (dân số)
– Sở Du lịch hoặc VHTTDL các địa phương, 2019
Số liệu thống kê năm 2019 cho thấy phát triển du lịch ở một số “đô thị du lịch biển” đã thực sự có những đóng góp tích cực cho phát triển kinh tế – xã hội ở những địa phương này, đặc biệt là đóng góp vào tăng trưởng kinh tế và tạo việc làm cho xã hội.
Tuy nhiên bên cạnh những đóng góp tích cực, cùng với hoạt động phát triển du lịch đã nảy sinh những tác động tiêu cực đến nhiều mặt kinh tế – xã hội và môi trường đô thị biển, cụ thể:
– Giảm lợi thế “mặt tiền”biển
Ở phần lớn các đô thị có biển, không gian dải ven biển luôn được ưu tiên quy hoạch cho mục đích phát triển các công trình dịch vụ du lịch nhằm tạo điều kiện tốt nhất cho du lịch phát triển. Tuy nhiên, phần lớn các quy hoạch cụ thể ở không gian “mặt tiền” này được thực hiện dựa trên tư duy quy hoạch đô thị chứ không dựa trên các nguyên tắc quy hoạch không gian điểm đến du lịch biển, theo đó các công trình dịch vụ du lịch (khách sạn, nhà hàng, cửa hàng mua sắm,…) sẽ được quy hoạch tập trung dọc một trục giao thông chạy song song đường bờ biển. Phía bên kia trục giao thông sẽ là bãi biển và các dịch vụ lẻ như giải khát, ăn nhẹ,.. … Phương án quy hoạch này có thể thấy ở nhiều đô thị biển như Hạ Long, Sầm Sơn, Cửa Lò, Nha Trang, Vũng Tàu,..
Ở phương án quy hoạch sử dụng dải ven biển dọc theo trục giao thông để xây dựng các công trình dịch vụ thì dư duy “phân lô” để xây dựng các khu du lịch nghỉ dưỡng biển, tạo thành “hành lang” cản trở cộng đồng địa phương được phép sử dụng bở biển.
Cả hai phương án quy hoạch dựa trên tư duy quy hoạch đô thị trên đều dẫn đến hệ lụy:
– Tạo áp lực đến hạ tầng xã hội
Cùng với sự gia tăng lượng khách sẽ là những áp lực không nhỏ đến hạ tầng xã hội đô thị, đặc biệt là hệ thống cung cấp điện, nước, hệ thống xử lý chất thải khi nhu cầu sử dụng điện, nước và thải lượng từ du lịch là rất lớn (Bảng 2)
Bảng 2: Áp lực của du lịch đến hạ tầng xã hội ở một số đô thị du lịch biển năm 2019
Việc tăng nhu cầu sử dụng điện, nước cho hoạt động du lịch sẽ lớn dần cùng với sự gia tăng lượng khách và số ngày lưu trú trung bình của khách tại điểm đến trong khi năng lực cung cấp điện nước ở các đô thị là có giới hạn. Chênh lệch giữa “cầu” và “cung” ngày một tăng được xem là nguyên nhân của tình trạng thường xuyên “cắt” điện, nước ở nhiều khu dân cư, đặc biệt vào mùa trong các đô thị du lịch biển. Điều này sẽ làm cho thái độ thân thiện của người dân, nhất là những người không có điều kiện tham gia dịch vụ du lịch, đối với khách du lịch ngày sẽ một giảm, làm nảy sinh và gia tăng mâu thuẫn giữa cộng đồng địa phương và khách du lịch.
Đối với các đô thị, việc thu gom và xử lý chất thải sinh hoạt luôn là vấn đề quan trọng được đặt ra để giải quyết, nhất là khi năng lực này ở các đô thị, thậm chí Hà Nội, TP. HCM còn rất hạn chế so với yêu cầu. Kết quả tính toán sơ bộ về lượng chất thải rắn và nước thải dựa trên tổng số ngày khách và thải lượng trung bình ngày khách cho thấy thải lượng từ du lịch sẽ tạo thêm áp lực đáng kể đến năng lực xử lý chất thải tại các đô thị du lịch biển. Điều này càng trở nên nghiêm trọng trong mùa du lịch, khi lượng khách có thể tăng lên nhiều lần so với thời kỳ thấp điểm.
Trong trường hợp năng lực xử lý chất thải sinh hoạt đô thị bị quá tải thì môi trường đô thị và vùng phụ cận sẽ bị ảnh hưởng và xuống cấp như một hệ quả tất yếu. Tình trạng xuống cấp, ô nhiễm môi trường ngày một gia tăng có thể quan sát tại nhiều đô thị du lịch biển, đặc biệt ở những khu vực tập trung khách như vịnh Hạ Long, ở vịnh Nha Trang,…
– Tăng áp lực ùn tắc giao thông đô thị
Sự gia tăng lượng khách du lịch sẽ tạo “cầu” rất lớn đối với vận chuyển khách tại điểm đến. Trong khi hệ thống hạ tầng giao thông ở phần lớn các đô thị ở Việt Nam được quy hoạch chủ yếu dựa trên nhu cầu phát triển KT-XH với quy mô dân số tại chỗ mà không tính đến sự gia tăng lượng khách du lịch. Chính vì vậy việc tăng lượng khách du lịch, đặc biệt vào mùa du lịch được xem là nguyên nhân của tình trạng ùn tắc giao thông ngày một tăng ở nhiều đô thị du lịch biển. Việc cấm các phương tiện giao thông trên 29 chỗ ngồi vào trung tâm thành phố Nha Trang vào các khung giờ từ 6h30-8h00 và 16h30-18h30 từ ngày 1/3/2020 là ví dụ điển hình để hạn chế tác động này từ du lịch. Tình trạng ùn tắc giao thông này cũng gia tăng tại nhiều đô thị du lịch biển khác như Đà Nẵng, Hội An, Hạ Long,.. đã ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống sinh hoạt, an ninh trật tự an toàn giao thông ở các đô thị du lịch nói chung và các đô thị du lịch biển hiện nay.
– Ảnh hưởng đến cuộc sống người dân
Phát triển du lịch cũng kèm theo sự gia tăng giá cả sinh hoạt, nhất là vào mùa du lịch, ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống của người dân đô thị, nhất là người dân có thu nhập thấp. Đây cũng là yếu tố làm gia tăng khoảng cách giàu nghèo đô thị và sự không hài lòng của nhiều dân nghèo đô thị đối với phát triển du lịch.
– Ảnh hưởng đến phát triển đô thị bền vững
Như đã phân tích ở trên, do quy hoạch không gian biển cho mục đích du lịch không dựa trên những nguyên tắc cơ bản của quy hoạch du lịch biển, vì vậy cho dù với phương án quy hoạch này, khách du lịch sẽ là người có lợi khi được tận hưởng được đầy đủ giá trị cảnh quan, khí hậu biển, tuy nhiên việc xây dựng và đưa vào sử dụng các công trình dịch vụ du lịch theo quy hoạch đã ảnh hưởng không nhỏ đến phát triển đô thị bền vững bởi các công trình này đã chiếm gần như toàn bộ “mặt tiền” hướng ra biển của đô thị làm cho không gian xanh đô thị ở ven biển, không gian biển công cộng cũng như không gian nghề biển của cộng đồng bị thu hẹp, thậm chí mất đi ở hầu hết các đô thị du lịch biển.
Bên cạnh đó với phương án quy hoạch trục đường ven biển luôn chạy song song đường bờ sẽ làm giảm hiệu ứng “đóng – mở” đối với cảnh quan biển khi khách du lịch lưu thông trên trục đường này để trải nghiệm cảnh quan đô thị và cảnh quan biển. Hệ thống cây xanh chống cát bay và bảo vệ đô thị trước gió bão cũng bị “xóa sổ”, làm hạn chế khả năng “chống chịu” của đô thị trước gió bão.
Việc phân tích hiện trạng phát triển đô thị du lịch biển cho thấy đây là một mô hình góp phần làm đa dạng hóa và đem lại lợi ích nhiều mặt cho phát triển hệ thống đô thị ở Việt Nam. Tuy nhiên nếu không được quy hoạch và quản lý phù hợp, hoạt động phát triển đô thị du lịch biển sẽ không chỉ có tác động tiêu cực đến môi trường tự nhiên và xã hội mà còn đến sự phát triển bền vững đô thị nói chung.
3. Một số giải pháp đẩy mạnh phát triển đô thị du lịch biển bền vững
Cho dù cho đến nay “đô thị du lịch biển” chưa được “chính danh” trong hệ thống đô thị Việt Nam, song vai trò của đô thị du lịch biển là không thể phủ nhận đối với phát triển kinh tế – xã hội vùng ven biển và hải đảo cũng như với phát triển du lịch Việt Nam.
Để đẩy mạnh phát triển đô thị du lịch biển theo hướng bền vững và đảm bảo có đóng góp ngày càng tích cực cho phát triển kinh tế – xã hội, đảm bảo quốc phòng an ninh, một số giải pháp pháp cần được chú trọng xem xét trong thực tiễn bao gồm:
– Thứ nhất, cần sớm nghiên cứu điều chỉnh Luật đô thị theo hướng công nhận tính chuyên ngành (đô thị công nghiệp, đô thị du lịch,..), tính chuyên biệt (đô thị xanh, đô thị thông minh,…) của đô thị và các danh hiệu đô thị (đô thị đáng sống, đô thị hạnh phúc, đô thị hòa bình,…) trong hệ thống đô thị với các tiêu chí hoặc tiêu chuẩn cụ thể. Việc điều chỉnh lại Luật đô thị theo hướng này sẽ phát huy được những lợi thế so sánh của từng đô thị, khuyến khích phát triển đô thị theo hướng đem lại tiện ích, môi trường sống tốt hơn cho cư dân đô thị và qua đó tạo sự đa dạng trong phát triển hệ thống đô thị Việt Nam.
Cùng với việc điều chỉnh lại Luật đô thị là việc xem xét ban hành các chính sách phù hợp khuyến khích đầu tư khai thác các lợi thế tương đối và tạo các điều kiện thuận lợi để phát triển các đô thị chuyên ngành, trong đó có đô thị du lịch biển.
– Thứ hai, để đảm bảo sự phát triển bền vững của các đô thị du lịch biển, cần vượt qua tư duy quy hoạch đô thị hiện nay để tiến hành rà soát, điều chỉnh quy hoạch các đô thị du lịch biển hiện có, đặc biệt đối với không gian dải ven biển phù hợp với các nguyên tắc quy hoạch du lịch đối với các địa bàn/không gian các công trình dịch vụ ven biển và trên các hải đảo.
Việc điều chỉnh quy hoạch đô thị du lịch nói chung và đô thị du lịch biển nói riêng cũng cần được thực hiện với khu trung tâm đô thị, theo đó khu trung tâm đô thị hiện có cần ưu tiên gắn với hệ thống tiện ích và các công trình dịch vụ du lịch. Trong điều kiện cho phép, cần quy hoạch khu vực dịch vụ, mua sắm, vui chơi giai trí riêng biệt, ít ảnh hưởng đến cuộc sống của cư dân để đảm bảo hoạt động du lịch có thể diễn ra 24/24, qua đó đẩy mạnh phát triển kinh tế đêm đô thị mà ở đó du lịch sẽ là nòng cốt.
Đối với những đô thị mới, việc quy hoạch cần có sự tham gia của các chuyên gia du lịch có kinh nghiệm và trình độ.
– Thứ ba, cần có phương án lồng ghép kế hoạch ứng dụng công nghệ 4.0 trong kế hoạch phát triển của các đô thị du lịch biển để đảm bảo trong tương lai gần các đô thị du lịch nói chung và đô thị du lịch biển nói riêng ở Việt Nam phải đạt tiêu chuẩn đô thị thông minh. Đây là yếu tố tạo nên tiện ích và tính hấp dẫn đối với khách du lịch, phù hợp với xu thế phát triển các điểm đến du lịch trên thế giới và khu vực.
Bên cạnh đó cần chú trọng ứng dụng công nghệ khuyến khích sử dụng năng lượng thay thế, tiết kiệm điện nước, tái sử dụng chất thải trong dịch vụ du lịch. Đặc biệt cần hoàn thiện hệ thống thu gom và xử lý chất thải từ du lịch để đảm bảo giảm thiểu tác động tiêu cực của du lịch đến môi trường nói chung và môi trường biển nói riêng. Đây sẽ là những giải pháp cụ thể đóng góp cho bảo vệ môi trường và ứng phó với biển đổi khí hậu ở các đô thị du lịch biển.
– Thứ tư, để đảm bảo sự phát triển bền vững của một đô thị có tính chất chuyên ngành cao và có vị trí địa lý quan trọng đối với hoạt động bảo vệ chủ quyền biển đảo và thích ứng với tác động của biến đổi khí hậu, cần chú trọng thường xuyên nâng cao năng lực quản lý đô thị của các cấp chính quyền. Ngoài kiến thức về quản lý nhà nước, quản lý đô thị, cần thường xuyên bồi dưỡng nâng cao trình độ, hiểu biết về du lịch, về quy hoạch và quản lý quy hoạch du lịch và về ảnh hưởng của cách mạng công nghiệp 4.0 cũng như biến đổi khí hậu trong phát triển đô thị du lịch biển.
Việc chú trọng thực hiện một số giải pháp chính trên đây sẽ góp phần hoàn thiện, đổi mới và phát triển hệ thống đô thị du lịch biển ở Việt Nam theo hướng bền vững, qua đó góp phần tích cực hơn cho phát triển kinh tế – xã hội các địa phương và phát triển du lịch biển Việt Nam./.
PGS.TS. Phạm Trung Lương
Phó Chủ tịch Hội Bảo vệ Tài nguyên và Môi trường biển Việt Nam
Thành viên Tổ chuyên gia tư vấn Quy hoạch quốc gia
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC: DANH SÁCH CÁC ĐÔ THỊ CÓ BIỂN Ở VIỆT NAM
(tính đến 31/07/2020)
STT | Đô thị | Địa phương | Ghi chú |
Đô thị đặc biệt | |||
1 | TP. Hồ Chí Minh | ||
Đô thị loại I | |||
2 | TP. Hải Phòng | Trực thuộc TƯ | |
3 | TP. Đà Nẵng | – nt – | |
4 | TP. Hạ Long | Quảng Ninh | Trực thuộc tỉnh |
5 | TP. Quy Nhơn | Bình Định | – nt – |
6 | TP. Nha Trang | Khánh Hòa | – nt – |
7 | TP. Vũng Tàu | Bà Rịa – Vũng Tàu | – nt – |
Đô thị loại II | |||
8 | TP. Móng Cái | Quảng Ninh | Trực thuộc tỉnh |
9 | TP. Cẩm Phả | Quảng Ninh | – nt – |
10 | TP. Đồng Hới | Quảng Bình | – nt – |
11 | TP. Tam Kỳ | Quảng Nam | – nt – |
12 | TP. Quảng Ngãi | Quãng Ngãi | – nt – |
13 | TP. Tuy Hòa | Phú Yên | – nt – |
14 | TP. Phan Rang-Tháp Chàm | Ninh Thuận | – nt – |
15 | TP. Phan Thiết | Bình Thuận | – nt – |
16 | TP. Bạc Liêu | Bạc Liêu | – nt – |
17 | TP. Rạch Giá | Kiên Giang | – nt – |
18 | TP. Phú Quốc | Kiên Giang | NQ số 1109/NQ-UBTVQH14 ngày 09/12/2020 |
Đô thị loại III | |||
19 | TX. Quảng Yên | Quảng Ninh | Trực thuộc tỉnh |
20 | TP. Sầm Sơn | Thanh Hóa | – nt – |
21 | TX. Cửa Lò | Nghệ An | QĐ số 2355/QĐ-TTg ngày 25/12/2014 công nhận là đô thị du lịch |
22 | TX. Kỳ Anh | Hà Tĩnh | Trực thuộc tỉnh |
23 | TP. Hội An | Quảng Nam | – nt – |
24 | TX. Sông Cầu | Phú Yên | – nt – |
25 | TP. Cam Ranh | Khánh Hòa | – nt – |
26 | TX. La Gi | Bình Thuận | – nt – |
27 | TP. Hà Tiên | Kiên Giang | – nt – |
Đô thị loại IV | |||
28 | TX. Nghi Sơn | Thanh Hóa | Trực thuộc tỉnh |
29 | TX. Hoàng Mai | Nghệ An | Trực thuộc huyện |
30 | TX. Hương Trà | Thừa Thiên – Huế | Trực thuộc huyện |